Theo ITC, năm 2016, Brazil, Colombia, Việt Nam, Guatemala, Indonesia là 5 nước chính xuất khẩu cà phê sang Nhật Bản. Trong đó, Brazil là nước đứng đầu về thị phần (31%), ứng với kim ngạch 438,89 triệu USD, giảm 13% so với năm 2015. Clombia đứng thứ 2, với kim ngạch 236,16 triệu USD, giảm 23% so với cùng kỳ năm ngoái, ứng với thị phần 16,7%. Việt Nam, Guatemala, Inodesia có các thị phần lần lượt là 12,8%; 10,8%; 6,3%. Nguyên nhân sự sụt giảm về kim ngạch so với năm 2015 của nhiều nước là do nhu cầu nhập khẩu cà phê của Nhật Bản giảm.
Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Nhật Bản năm 2016 đạt 180,91 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm ngoái, và tăng trưởng 6% cả giai đoạn 2012-2016, đây là nhà cung ứng duy nhất trong 5 nước chính có tăng trưởng dương cả giai đoạn. Riêng quý II các năm, nhu cầu nhập khẩu cà phê của Nhật Bản không ổn định, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang nước này, mỗi quý đạt trung bình trên 50 triệu USD, trừ quý II năm 2015 chỉ đạt 42,30 triệu USD. Quý II năm 2017, kim ngạch này đạt 59,17 triệu USD, cao nhất cả giai đoạn, chiếm 15,31% tổng kim ngạch nhập khẩu cà phê của Nhật Bản.
Kim ngạch nhập khẩu cà phê của Nhật Bản từ thế giới và từ Việt Nam
Đơn vị tính: triệu USD
|
QII/2013 |
QII/2014 |
QII/2015 |
QII/2016 |
QII/2017 |
Kim ngạch nhập khẩu từ thế giới |
482,92 |
383,25 |
419,84 |
395,77 |
386,39 |
Kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam |
54,67 |
52,12 |
42,30 |
53,04 |
59,17 |
Đối với thị trường này, cà phê thô, chưa rang, chưa khử chất caffeine (mã HS 090111) là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất của Việt Nam, ứng với kim ngạch 58,84 triệu USD, tăng 12,13% so với quý II năm 2016. Ngoài ra, cà phê đã rang, chưa khử chất caffeine (mã HS 09021), và cà phê chưa rang, đã khử chất caffeine (mã HS 090112) là hai mặt hàng có kim ngạch cao tại Nhật. Tuy mặt hàng cà phê là mặt hàng thế mạnh của Việt Nam, nhưng chủ yếu xuất khẩu những mặt hàng cà phê thô, chưa qua chế biến, nên giá thành sẽ thấp hơn, ít tính cạnh tranh hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác, doanh nghiệp Việt Nam nên tìm hiểu thị yếu tiêu dùng, tập trung vào cụ thể từng nhóm đối tượng khách hàng , đẩy mạnh yếu tố chất lượng, mẫu mã bao bì sản phẩm, để tạo lợi thế cạnh tranh trong thời gian tới.